Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là một quyền hiến định, đã được quy định cụ thể tại tại khoản 4, Điều 31, Hiến pháp năm 2013. Theo đó: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa“.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định việc bảo đảm quyền này là một trong những nguyên tắc cơ bản. Cụ thể ở Điều 16: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”
Có thể thấy, các quy định nêu trên là những quy định mang tính tiến bộ, đảm bảo quyền con người, đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự. Đối với từng đối tượng và từng trường hợp cụ thể, pháp luật về tố tụng hình sự đều ghi nhận quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa của họ, việc này được các cơ quan tiến hành tố tụng tôn trọng và thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục.
Cụ thể, Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10 tháng 10 năm 2019 cuả Bộ Công an đã quy định về trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã (sau đây gọi chung là người bị bắt), người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Trong đó, Điều 3 Thông tư này quy định về việc giải thích, thông báo quyền nhờ người bào chữa như sau: “Khi tiếp nhận người bị bắt, giao Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ, Quyết định khởi tố bị can cho bị can, người thực hiện lệnh, quyết định, tiếp nhận người bị bắt phải đọc, giải thích rõ về quyền, nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và ghi vào biên bản giao nhận. Trong biên bản phải ghi rõ ý kiến của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can về việc có nhờ người bào chữa hay không và đề nghị thông báo cho người đại diện, người thân thích để cơ quan có thẩm quyền thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có liên quan đến người đại diện hoặc người thân thích của họ...”